Vợ đăng ảnh “ân ái” của chồng và bồ lên facebook thì có bị làm sao không?
TRẢ LỜI:
Cơ sở pháp lý: Bộ luật Dân sự 2015; Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Luật An ninh mạng 2018; Nghị định 72/2013/NĐ-CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
Thứ nhất, hành vi đăng ảnh nóng, ảnh nhạy cảm của người khác lên các trang mạng xã hội là hành vi trái pháp luật.
Có thể thấy, hành vi tung ảnh nóng, ảnh nhạy cảm của người khác lên trang mạng xã hội là hành vi thiếu ý thức, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ. Mặt khác, hành vi này đã tiết lộ những thông tin thuộc về cá nhân của người đó mà đã đượ pháp luật bảo vệ về quyền con người, quyền riêng tư và quyền hình ảnh của họ.
Ngoài ra hành vi này còn thể hiện sự suy đồi đạo đức, giảm sút nghiêm trọng nhận thức và suy nghĩ của con người trong giai đoạn hiện đại hiện nay và làm ảnh hưởng rất tiêu cực đến hình ảnh, đời sống cá nhân của “nạn nhân” bị đăng những hình ảnh nhạy cảm đó lên các phương tiện truyền thông.
Theo thông tin bạn cung cấp thì khi đăng ảnh “ân ái” của chồng và bồ lên facebook chính là biểu hiện của hành vi làm nhục người khác, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền cá nhân, quyền con người của họ; làm ảnh hưởng đến bí mật cá nhân, danh dự, nhân phẩm uy tín của người đó nhằm mục đích như mong muốn, đó là: hạ bệ danh dự của người bị đăng ảnh “ân ái”, xúc phạm, chà đạp lên hình ảnh, nhân cách của họ,…
Thứ hai, về hành vi đăng ảnh nhạy cảm, ảnh nóng lên các trang mạng xã hội sẽ bị xử lý như thế nào?
Hành vi này tùy thuộc và mức độ vi phạm cũng như hậu quả xảy ra có thể bị xử phạt hành chính hoặc chịu trách nhiệm dân sự nặng hơn có thể là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Hành vi đăng ảnh nhạy cảm của người khác lên trang mạng xã hội phụ thuộc vào mức độ ít nghiêm trọng sẽ bị xử phạt hành chính:
Căn cứ theo quy định tại điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định về QUY ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BƯU CHÍNH, VIỄN THÔNG, TẦN SỐ VÔ TUYẾN ĐIỆN, CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ GIAO DỊCH ĐIỆN, người có hành vi nêu trên sẽ phải chịu xử phạt hành chính như sau:
“Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;”
Như vậy, đối với trường hợp một người đăng ảnh “ân ái” của chồng và bồ lên trang mạng xã hội Facebook chính là cụ thể hóa của hành vi đăng tải, truyền đưa, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác( trong trường hợp này chính là người chồng và bồ của người chống đó) thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt theo như quy định đã phân tích ở trên.
* Hành vi đăng ảnh nhạy cảm của người khác lên trang mạng xã hội phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự:
Căn cứ theo quy định tại điều 32, 34 và điều 38 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Quyền của cá nhân đối với hình ảnh; Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình thì người có hành vi đăng ảnh “ân ái” của chồng và bồ lên trang mạng xã hội facebook đã xâm phạm đến:
“Điều 32. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh
- Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý.”
Có thể thấy, việc tự ý đăng hình ảnh cá nhân, riêng tư của người khác bao gồm cả chồng và cô bồ là hành vi vi phạm đến quyền của cá nhân đối với hình ảnh được PL Dân sự bảo vệ tuyệt đối.
Mặt khác, theo khoản 3 điều 34 BLDS 2015 quy định như sau:
“3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.”
Tức là trong trường hợp này nếu người có hành vi đăng ảnh “ân ái”-nhạy cảm, ảnh nóng lên trang mạng xã hội facebook thì phải lập tức gỡ bỏ để tránh tác động lây lan nhanh chóng của cộng đồng mạng về việc chia sẻ những hình ảnh này. Ngoài ra người đó phải có trách nhiệm cải chính thông tin đó để không làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của người bị đăng tải thông tin.
Bên cạnh đó theo quy định tại khoản 1 điều 38 BLDS 2015 quy định như sau:
“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.”
Như vậy, đời sống tình cảm cá nhân riêng tư là những vấn đề nhạy cảm và cần được “bí mật” và không được phép công khai nếu cá nhân người có bí mật, đời sống riêng tư không cho phép tiết lộ.
Như đối với trường hợp này thì ngoài việc đã vi phạm quyền cá nhân đối với hình ảnh của anh chồng và cô bồ theo quy định tại Điều 32 thì còn xâm phạm đến đời sống riêng tư, quyền được bảo vệ đối với danh dự, nhân phẩm. Trong mọi trường hợp việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, Nhà nước nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Người nào xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại theo quy định Bộ luật Dân sự.
Do đó người chồng và bồ có thể nộp đơn khởi kiện lên Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 189, 190,191 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Bên cạnh đó, họ cũng có thể yêu cầu người này bồi thường thiệt hại về tinh thần cho, theo đó, mức yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần bao gồm các chi phí để khắc phục, thu hồi các hình ảnh “ân ái” gây hại. Bên cạnh các chi phí đó, người bị hại có quyền yêu cầu bù đắp tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, mức yêu cầu này được quy định theo Điều 592 BLDS 2015:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
*Hành vi đăng ảnh nhạy cảm của người khác lên trang mạng xã hội phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự:
Tùy theo mức độ thiệt hại ảnh hưởng của hành vi nếu mà hành vi đăng ảnh “ân ái” lên trang facebook mà để độ lan truyền, chia sẻ của cộng đồng mạng cao, xâm phạm cực kì nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của chồng và cô bồ thì người này có thể phải chịu mức hình phạt theo quy định tại điều 155 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;…”
Mặt khác, hành vi tung ảnh “ân ái” trên có thể coi là “phát tán văn hóa phẩm đồi trụy”, có thể bị khởi tố hình sự về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo Điều 326 BLHS 2015(sửa đổi, bổ sung) quy định về “Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy” như sau:
“1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có nội dung khiêu dâm, đồi trụy hoặc hành vi khác truyền bá vật phẩm đồi trụy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dữ liệu được số hóa có dung lượng từ 01 gigabyte (GB) đến dưới 05 gigabyte (GB);
b) Ảnh có số lượng từ 100 ảnh đến dưới 200 ảnh;
c) Sách in, báo in hoặc vật phẩm khác có số lượng từ 50 đơn vị đến dưới 100 đơn vị;
d) Phổ biến cho từ 10 người đến 20 người;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm….”
Như vậy tùy theo mức độ phát tán, lan truyền hình ảnh nhạy cảm đến mọi người mà người phạm tội thực hiện hành vi này sẽ chịu những mức hình phạt khác nhau theo căn cứ quy định tại điều 326.
Và trong trường hợp này, khi người bị hại muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình không bị xâm hại thì cần gửi đơn Tố cáo đến cơ quan cấp huyện nơi người bị hại cư trú. Đây là một trường hợp đặc biệt cho nên phải chính đích thân người bị hại phải đứng ra nộp đơn đề nghị khởi tố theo như quy định tại điều 144 BLHS 2015 Đương nhiên mức hình phạt sẽ tùy thuộc vào sự điều tra của cơ quan điều tra kết luận dẫn đến quyết định của Cơ quan Tòa án nơi tiến hành thụ lý, giai quyết hồ sơ vụ việc tùy vào mức độ thiệt hại, lỗi và động cơ, mục đích của người phạm tội.